Thứ Tư, 1 tháng 11, 2017

Phá cách cùng các kiểu giày độc lạ năm 2017



Cũng như quần áo, phụ kiện thì giày dép là thứ không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày, nó không chỉ là phụ kiện để bảo vệ đôi chân mà còn là thể hiện đẳng cấp, phong thái và tinh thần và cả trạng thái cảm xúc của người mang. Vậy xu hướng giày nào sẽ khiến các tín đồ điên đảo trong năm 2017?



Phá cách cùng các kiểu giày độc lạ năm 2017




1. PRINCETOWN HORSEBIT SLIPPER/SLIPPER LÓT LÔNG

Mẫu phụ kiện đầu tiên chính là đôi slipper lót lông đã từng gây sốt trong suốt thời gian qua. Vẫn là chi tiết cái móc hình vó ngựa biểu tượng của nhà mốt Gucci, nhưng lần này điểm khiến giới điệu mộ vô cùng yêu thích là lớp lông dê “thừa” phủ lên xung quanh giày một cách độc đáo cùng với các hình thêu nổi hay họa tiết đầy màu sắc. Người đi sẽ cảm thấy mềm, mịn, vô cùng rất ấm áp và thoải mái. Mẫu giày lười vốn không được coi trọng như giày tây nhưng Gucci đã biến đổi chúng trở nên sang trọng và sành điệu hơn hẳn.

2. SNEAKER THÊU

Sneaker thêu không phải là trào lưu mới nhưng kể từ khi Gucci – nhà mốt thời trang danh tiếng của Ý tung ra mẫu Sneaker trắng được thêu hoa thì ngay lập tức xu hướng thêu họa tiết lên phụ kiện quay trở lại rầm rộ. “Ghi điểm” nhờ những họa tiết hoa lá rực rỡ, động vật hoang dã và côn trùng bắt mắt, tạo nên nét tương phản đầy thú vị giữa kiểu dáng giày thể thao năng động và những hình thêu nổi tinh tế, nền nã. Hầu hết các dòng giày sneaker thêu mang phong cách unisex nên đều phù hợp cho cả nam lẫn nữ.

3. GIÀY PLATFORM

Platform (giày độn cả mũi và gót) là kiểu giày ngày càng được nhiều tín đồ ưa chuộng, là kiểu giày có phần đế được thiết kê lớn hơn và có phần mũi cũng được độn cao, Platform tạo nên vẻ cứng cáp cho đôi giày cũng như gia tăng chiều cao cho người đi. Nó đem lại sự tự tin, mạnh mẽ và cũng đầy sự gợi cảm, quyến rũ, nữ tính qua các kiểu dáng và họa tiết mới mẻ. Giá của những đôi giày này khoảng từ 35-38 triệu đồng.

4. BỐT TẤT DA (SOCKS BOOTS)

Bốt tất “2 trong 1” được Vetements tung ra năm ngoái và nhận được giới yêu thời trang đánh giá vô cùng độc đáo. Những chiếc bốt “Sock ankle boots” thoạt nhìn trông giống kết hợp tất với giày, nhưng thực ra chúng liền với nhau thành một khối. Mốt giày này được săn đón rất nhiều trong năm 2016 và được các nhà mốt khác tiếp tục lăng xê nửa đầu năm nay. Điểm thú vị hơn đó là Gucci cho ra dòng bốt tất màu sắc tương phản và phần “tất” và phần giày có thể tháo rời, tiện lợi cho khách hang khi chỉ muốn mang giày.

Thứ Ba, 6 tháng 6, 2017

Tìm Hiểu Chung Về Ấm Trà Tetsubin Của Nhật

Tetsubin (鉄 瓶) là các loại đun bằng gang của Nhật với vòi rót, nắp đậy và tay cầm trên đỉnh, dùng để đun sôi và đổ nước nóng cho mục đích uống, chẳng hạn như pha trà. Người ta sử dụng tên Tetsubin cho ấm trà và đây là một trong những ấm trà vô cùng phổ biến được sử dụng rộng rãi ở Nhật. Chắc hẳn ai cũng biết rằng Nhật Bản là quốc gia có số lượng người uống trà mỗi ngày nhiều, họ có cả văn hóa uống trà, cho nên các loại ấm trà, bình pha trà đều được làm công phu và được nhiều người nhắc tới.

Tetsubin có thể được tìm thấy trong nhiều màu sắc với thiết kế khác nhau và các mô hình như màu đỏ này có các biểu tượng miêu tả mỗi bốn mùa cho may mắn
Nguồn gốc lịch sử của tetsubin là không chắc chắn. Ít nhất một nguồn tin độc quyền của Nhật Bản phát biểu rằng nó được phát triển từ nồi đun nước có vòi phun và được quản lý gọi là tedorigama đã được sử dụng trong chanoyu trong thời đại Sen no Rikyū (1522-91). Trong thế kỷ 19, truyền trà trở nên phổ biến hơn và tetsubin được xem xét chủ yếu là các biểu tượng trạng thái thay vì các mặt hàng bếp chức năng.

Bên ngoài Nhật Bản, một biến thể thường thấy là một ấm trà bằng gang đúc ra bên ngoài giống như một tetsubin. Loại ấm trà này được tráng bằng men ở bên trong để làm cho trà trở nên thực tế hơn mặc dù nó không thể được sử dụng để đun nóng nước vì nó có thể phá vỡ lớp phủ tráng men. Ở phía tây, những ấm trà này thường được gọi là tetsubin, mặc dù người Nhật gọi chúng là "tetsu kyūsu" (鉄 急 須), hoặc ấm trà sắt, để tạo sự khác biệt từ bình đun nước. Ấm đun gang thường đi kèm với bộ lọc trà phù hợp với bên trong.

Ảnh 1. Ấm trà Tetsubin Nhật Bản dần trở nên phổ biến 

Cách thức sử dụng và lợi ích

Tetsubin có nghĩa là cho nước sôi . Sử dụng nước đun sôi từ tetsubin để pha trà , hương vị của trà , đặc biệt là cường độ của các hương vị sau khi các thay đổi trà . Nếu bạn chưa bao giờ nước đun sôi trong một Tetsubin nếm thử trước , bạn không nghi ngờ gì , về để trải nghiệm những hương vị của nước khi bạn đã bao giờ tưởng tượng nó có thể được.
Các nước đun sôi trong một tetsubin là không chỉ thích hợp cho việc chuẩn bị trà . Nó có thể được sử dụng như nước uống đơn giản ; như nước đối với việc xây cà phê ; hoặc thậm chí là nước trong súp làm hoặc các sản phẩm thương mại như Cup O’Noodles . Như bạn sẽ thấy, hương vị của các nước sản xuất trong một Tetsubin độc đáo so với nước đun sôi trong bất kỳ thiết bị nấu ăn thông thường khác .
Cấu trúc hóa học của nước là một phần của khóa giải thích cách thay nước khi đun sôi trong một Tetsubin. Các phân tử nước (H2O) bao gồm hai yếu tố, hydro (+) và ôxy (-) Những yếu tố mang cả ái lực điện tích cực và tiêu cực hoặc các khoản phí, giống như một nam châm.. Điều này được gọi là lưỡng cực trong Hóa học. Các điện tích bằng nhau, mà tồn tại trên cả oxy và hydro, gây ra các phân tử nước không ngừng quay khi ở trạng thái lỏng. Nếu họ ngừng quay, sau đó nước sẽ trở thành băng. Cường độ biến của liên kết hydro cho phép các hương vị và kết cấu của nước thay đổi tùy thuộc vào các công cụ sử dụng khi đun sôi. Ví dụ, nếu không có hàm lượng khoáng chất trong các dụng cụ sử dụng để đun sôi nước, ví dụ, một cốc thủy tinh vô trùng, các điện tích dương và âm của các yếu tố của các phân tử nước sẽ chỉ đơn giản là được thu hút vào nhau và hình thành mạng lưới của họ hoặc phân tử thông qua liên kết hydro của họ. Những trái phiếu cho nước nó đặc trưng độ nhớt và sức căng bề mặt, nhưng một hương vị đồng bằng hoặc phẳng. Tuy nhiên, khi các khoáng chất tồn tại trong các dụng cụ sử dụng để đun sôi nước, ví dụ, các Tetsubin, các yếu tố của các phân tử nước được thu hút vào các khoáng chất từ ​​Tetsubin thay thế. Trong thực tế, mối quan hệ của các phân tử nước với một số loại khoáng sản ở Tetsubin là mạnh hơn những tồn tại giữa các phân tử nước mình. Khoáng chất và các phân tử nước hình thành liên kết ổn định hơn. Điều này thu hút mạnh mẽ hơn giữa các khoáng chất và các phân tử nước cũng làm tăng độ nhớt và sức căng bề mặt của nước. Điều này ảnh hưởng nhận thức của chúng ta về hương vị và kết cấu của chính nước đó, và quan trọng nhất, vị giác của chúng ta có thể cảm thấy hương vị, và một hương vị mà vẫn còn trong miệng của chúng ta nhờ sự hấp dẫn mạnh mẽ hơn của các liên kết hydro và các ion kim loại của Tetsubin.

Sự hiện diện của các khoáng chất cũng ảnh hưởng đến độ sâu của hương vị của nước. Khoáng sản thu hút hương vị sản xuất các chất dễ bay hơi và hình thành liên kết hydro mạnh mẽ hơn trong nước. Mạnh mẽ hơn các liên kết hydro, tốc độ bay hơi của các chất dễ bay hơi như vậy sẽ trở thành. Theo kết quả của sự bốc hơi chậm, chúng tôi cảm thấy một hương vị kéo dài sâu hơn và lâu hơn trong miệng của chúng tôi.

Có rất nhiều loại ấm trà khác nhau với nhiều kiểu dáng kích thước khác nhau ở Nhật, và một số trong chúng là được làm từ Tetsubin, ví dụ ở đây có Iwate-ken  tetsubin (ấm trà bằng gang) là một trong những sản phẩm phổ biến nhất,và nó rất tốt. Hình dạng "làm tổ hoặc trứng" cân bằng hoàn hảo của nó làm cho trà tràn ngập niềm vui tuyệt đối - một sự bổ sung trang trí đẹp cho bất kỳ căn nhà nào. Một loại của ấm trà cũng được làm từ Tetsubin là Kyusu, Kyusu thường được làm bằng gốm có túi lọc bên trong ấm trà, đây là một loại ấm trà bằng gốm tương đối kích cỡ nhỏ, có hoa văn trang trí bên trên rất đẹp và thanh lịch, nhẹ nhàng

Ảnh 2. Kyusu - tên một loại ấm được làm từ Tetsubin. Phần lớn Kyusu được làm từ gốm 

Điều giúp làm cho tetsubin thật sự đặc biệt này là nắp đậy bằng gỗ độc đáo của nó, mang lại nét duyên dáng hiện đại cho sản phẩm. Bên trong ấm trà được tráng men, giúp ngăn ngừa rỉ sét, cộng thêm một giỏ đựng đồ hộp bằng thép không gỉ có thể tháo rời để pha trà yêu thích của bạn một cách dễ dàng. Bộ ba sắt kết hợp (sắt) cũng được bao gồm, không chỉ phục vụ như một cái ghế đẹp trai, mà còn giúp ấm trà giữ nhiệt tốt.

Điều này TETSUBIN (TETSU có nghĩa là "sắt" và BIN có nghĩa là "nồi" hoặc "tàu") đã được thực hiện ở phía bắc Iwate-ken, một khu vực được coi là sản xuất đồ sắt tốt nhất tại Nhật Bản. Ironware được làm tại Iwate được gọi là Nambu-tekki và được ca ngợi trên toàn thế giới vì vẻ đẹp, sức mạnh và chất lượng tuyệt vời của nó.

Độc Đáo Gốm Sứ Làng Ngòi

Thủ công mỹ nghệ xuất hiện ở Bắc Giang cách đây nhiều thế kỷ với các sản phẩm của một làng ở đồng bằng sông Hồng bên bờ sông Cầu gọi là làng Thổ Hà và các sản phẩm gốm khác bao gồm làng Ngòi, gốm Quang Minh, gốm Bắc Giang. Tất cả các sản phẩm này được tạo ra với phong cách dân gian và tính năng độc đáo của văn hóa nông thôn.

Làng Ngòi thuộc xã Tu Mai, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. So với nhiều thương hiệu đồ gốm Việt Nam khác, đồ gốm làng Ngòi là một cái tên mới. Tuy nhiên, đồ gốm làng Ngòi khẳng định nhãn hiệu thương mại với những tính năng độc đáo và đơn giản nhưng phong phú về các nhân vật quốc gia được thiết lập theo phong cách riêng của mình, được phổ biến rộng rãi trên thị trường trong nước và quốc tế.

Ảnh 1. Đặc sắc nghệ thuật tại gốm làng Ngòi

Khác với đồ gốm Bát Tràng được sơn và trang trí bằng màu sắc hoặc gốm Phù Lãng chỉ đánh bóng bằng men, gốm làng Ngòi được các họa sỹ trang trí bằng những mẫu chạm nổi sinh động bằng vật liệu gốm màu nâu độc đáo. Các sản phẩm gốm có bề mặt thô tục giữ lại phong cách dân gian và đặc trưng văn hoá độc đáo của làng quê Việt Nam.
Tranh gốm là dòng sản phẩm đặc biệt, hút khách nhất của gốm làng Ngòi, dòng tranh tường khổ lớn, đắp nổi được ghép từ các mảnh gốm dày, có bức dày tới 10cm rất khó làm, đòi hỏi độ tỉ mỉ trong chế tác và kỹ thuật nung cao. Độ co ngót của tranh tường trong quá trình nung tới 14% vì vậy nếu hỏng một mảnh buộc phải làm lại cả bức. Cũng chính bởi khó làm nên giá thành của tranh tường khá đắt, khoảng 5 triệu đồng/m2.
Cùng với dòng tranh tường, dòng sản phẩm gốm tượng dân gian, như: tượng Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc hay nhiều loại tượng phù điêu khác cũng đang rất được ưa chuộng. Theo Nghệ nhân Lưu Xuân Khuyến, dòng sản phẩm này tuy không phải lo về độ cong vênh giữa các mảnh ghép nhưng rất dễ bị “xé”, thậm chí nổ vì vậy trong quá trình nung cần theo dõi chặt chẽ nhiệt độ.
Cho dù là tranh tường hay gốm tượng các sản phẩm của gốm làng Ngòi đều khoác trên mình chiếc áo văn hóa dân gian rất đặc trưng và cuốn hút người thưởng lãm bằng nét mộc mạc, dân dã, gần gũi nhưng vô cùng độc đáo ở họa tiết trang trí và cách thể hiện.
Để làng Ngòi trở thành làng nghề thực sự
Hiện nay, gốm làng Ngòi ngày càng có chỗ đứng trên thị trường, thậm chí cung không đủ cầu. Tuy nhiên, việc mở rộng sản xuất gặp khá nhiều khó khăn và tại làng Ngòi hiện chỉ có duy nhất một cơ sở sản xuất của Nghệ nhân Lưu Xuân Khuyến. Để tạo thêm cơ sở sản xuất vệ tinh, nghệ nhân cũng đã phối hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Giang tổ chức đào tạo nghề cho hàng trăm lao động. Tuy nhiên, gốm là nghề đòi hỏi có khả năng nghệ thuật, độ khéo léo cao trong khi đó làng Ngòi không có truyền thống về nghề gốm, người dân sản xuất nông nghiệp là chủ yếu cũng như năng lực về vốn, tổ chức sản xuất yếu nên rất khó bám nghề. Hơn nữa, việc mở rộng quy mô của cơ sở sản xuất gốm làng Ngòi cũng đang rất vướng do không có mặt bằng, vốn.
Các sản phẩm gốm của làng Ngòi có những nét đặc trưng truyền thống nhưng thể hiện những đặc điểm độc đáo và dễ thương. Họ hấp dẫn với các tính năng đơn giản và quen thuộc của họ nhưng duy nhất với các mẫu trang trí.

Ảnh 2. Một góc những nghệ nhân nơi đây

Ngòi làng gốm được làm bằng tình yêu nghệ thuật, chuyên cần, yêu nước và yêu thích văn hoá dân gian phù hợp với tài năng và sự sáng tạo của thợ thủ công. Tất cả những yếu tố này tạo ra một sản phẩm gốm độc đáo của làng Ngòi. Đến nay, đồ gốm làng Ngòi không chỉ nổi tiếng mà còn trở thành thương hiệu uy tín trên thị trường gốm Việt Nam. Sản phẩm gốm của thôn Ngòi nổi tiếng trên cả thị trường trong nước và quốc tế. Nó đã được giới thiệu trong hàng trăm hội chợ thương mại và triển lãm đặc biệt là nó đã được trưng bày tại triển lãm mang tên "Hình ảnh APEC và di sản văn hoá Việt Nam" năm 2007 và được Hiệp hội các làng nghề Việt Nam công nhận là "tinh hoa của các làng nghề". Sản phẩm gốm của thôn Ngòi đã được sử dụng cho nhiều công trình xây dựng trên cả nước và xuất khẩu sang Nhật, Ấn Độ, Ai Cập và Châu Âu.

Sự Đánh Giá Cao Của Khách Nước Ngoài Về Gốm Đông Triều

Đông Triều là một trong những điểm dừng chân bắt buộc của du khách trong và ngoài nước khi đến thăm khu vực vịnh Hạ Long hùng vĩ với số dân hải đảo tăng từ vùng nước trong xanh của Vịnh Bắc Bộ. Huyện Đông Triều, cách thành phố Hạ Long 60km, trên đường cao tốc 18A, sở hữu một số ngôi làng gốm nổi tiếng nhất của Việt Nam. Gốm sứ Triều đã phát triển gần đây hơn so với các làng gốm sứ truyền thống khác ở Việt Nam như là thợ bậc thầy đầu tiên, ông Hoàng Ba Huy, bắt đầu hội thảo sản xuất gia đình vào năm 1955. Vài năm sau, năm 1958, ông thành lập hợp tác gốm sứ Đông Thành ở làng Cầu Đất với một số nhà máy sản xuất gia đình khác. Đến cuối năm 1960, ông đã thành lập một hợp tác xã khác là Gạch Ngói Ánh Hồng tại thôn Vĩnh Hồng, thị trấn Mạo Khê.

Ảnh 1. Một góc làm gốm sứ Đông Triều

Sản phẩm Đông Triều được liệt kê trong danh mục gốm chịu lửa. Artisan chủ yếu sử dụng lò sấy hình bầu dục bắn ở 1300 độ C. Nguyên liệu chính là đất sét trắng mềm của làng Trúc Thôn và cao lanh chịu lửa khai thác ở thôn Tú Lạng, tỉnh Hải Dương. Để bắt kịp với hàng trăm năm tuổi biết làm thế nào, các nghệ nhân đã dành rất nhiều thời gian và công sức để tìm ra những phương pháp chuẩn bị vật liệu và cấu trúc lò nung hiệu quả nhất. Nhờ nghiên cứu sâu rộng và do nhiệt độ đốt cao nên gốm Đông Triều đảm bảo độ bền cao cũng như độ tinh khiết của men. Tất cả các tạp chất và Fe2O3 được loại bỏ khỏi đất sét thô và điều trị vật liệu được kiểm soát chặt chẽ để đạt được chất lượng ổn định và màu sắc dễ chịu.
Với khả năng chịu nhiệt độ cao, nước men đều và trong, độ bền tốt, gốm Đông Triều đã chiếm lĩnh được thị trường và có thời gian hưng thịnh nhất vào những năm 80, 90 của thế kỷ trước. Tuy nhiên, bước vào những năm đầu thế kỷ 21, những người làm gốm Đông Triều lâm vào cảnh khó khăn trước sự bão hoà của các sản phẩm. 15/35 hộ làm gốm tại khu Vĩnh Hồng phải đóng cửa hoặc sản xuất cầm chừng vì không bán được hàng. Nhưng 3 năm trở lại đây, nghề làm gốm Đông Triều lại phát triển trở lại với sự đa dạng mẫu mã sản phẩm phù hợp với xu thế hiện nay. “Để chinh phục được khách hàng, điều quan trọng nhất của người làm gốm là phải tự đổi mới mẫu mã sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị hiếu của mọi người. Chúng tôi luôn phải tìm tòi, cách tân sản phẩm, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất mới có thể cứu được làng nghề tồn tại đến hôm nay…” – ông Thống chia sẻ.
Nếu như trước đây, gốm Đông Triều chỉ sản xuất các loại chậu hoa, đôn là chính thì hiện nay, nhiều hộ đã dần chuyển sang làm các loại chum, hũ ngâm rượu, bình hoa. Mẫu mã sản phẩm có sự thay đổi so với trước đây rất nhiều. Các dòng sản phẩm có kích cỡ to, độ dày lớn và nặng nay được thay thế bằng những sản phẩm gốm mỏng, cỡ nhỏ, không chỉ phù hợp với thị hiếu thị trường, mà còn tiết kiệm được chi phí trong sản xuất. Nhiều sản phẩm được cải tiến mẫu mã mới rất đa dạng, phong phú như sản phẩm chậu hoa trước sản xuất chủ yếu dạng đường kính lớn, mẫu mã đơn điệu (chủ yếu để men thô hoặc để tông màu xanh, chàm) nay được cải tiến sản xuất thêm nhiều dáng chậu được trang trí đắp nổi như: Bộ chậu bát, bộ chậu thống, bộ chậu ly, có đường kính từ 40-60cm, phong phú các loại màu sắc như vàng, màu da lươn…

Ảnh 2. các sản phẩm gốm Đông Triều luôn giữ được phong cách riêng 

Hiện tại có 20 lò nung ở thôn Cầu Đất và khoảng 36 hộ ở Vĩnh Hồng, cung cấp việc làm cho gần 1500 lao động địa phương. Một số đơn vị sản xuất có sản phẩm nhỏ như bát, đĩa, cốc vv đã bắt đầu sử dụng lò nung khí.

Gốm sứ Đông Triều chuyên sản xuất các mặt hàng cụ thể mà các làng gốm khác không thể sản xuất được như chậu hoa có đường kính 100 cm, nôi chậu hoa rộng, lưu vực, ... Thủ công mỹ nghệ không làm đạo đức của thợ thủ công Việt Nam Thêm sự nhạy cảm và sức mạnh của trái tim của họ để sự khéo léo của bàn tay của họ, cũng như công nghệ hiện đại. Styling được làm trên các bảng xoay điện để tạo ra năng suất cao. Thiết kế và mẫu trang trí được bảo vệ tốt khi chúng được vẽ dưới men. Chúng bao gồm bốn mùa, cảnh quan quyến rũ, v.v.


Gốm Đông Triều được đánh giá cao bởi khách hàng nước ngoài và chậu hoa, ghế ngồi và bồn rửa nhà trong nhà và ngoài trời được xuất khẩu sang nhiều nước như: Hàn Quốc, Đài Loan, Các tiểu vương quốc Arập thống nhất, Canada ... Nhiều doanh nghiệp trong nước hiện nay nhận thức được tiềm năng quan trọng Phát triển đồ gốm ở Đông Triều. Thu hút bởi nguồn nguyên liệu dồi dào, lực lượng lao động có tay nghề và điều kiện giao thông thuận lợi, họ đã đầu tư vào Đông Triều và tạo cơ sở vững chắc cho phát triển kinh tế trong khu vực.

THỊ TRƯỜNG GỐM SỨ TẠI TỈNH BÌNH DƯƠNG

Tỉnh Bình Dương nằm ở phía đông của miền Nam Việt Nam, với thị trấn Thủ Dầu Một cách thành phố Hồ Chí Minh 30 km về phía Nam. Một trong những đặc trưng văn hoá quan trọng của Bình Dương là mạng lưới các làng nghề truyền thống trải khắp tỉnh, chuyên sản xuất gốm sứ, sơn mài, điêu khắc, đúc thau ... Nhưng đó là sản xuất gốm truyền thống là niềm tự hào thực sự của Bình Dương. Thế hệ sau thế hệ, tay khéo léo và trí tuệ nghệ thuật đã tạo ra một sự đa dạng rất lớn về đồ gốm và đồ gốm đã thiết lập tên của họ trên toàn thế giới.

Ảnh 1. Gốm sứ Bình Dương phát triển mạnh mẽ

 Theo các nhà sử học, sản xuất gốm xuất hiện ở Bình Dương vào thế kỷ 18 và thực sự bắt đầu phát triển khi một số thợ gốm Trung Quốc đến Bình Dương trên các tàu thương mại. Khi thấy chất lượng cao của đất sét địa phương, trữ lượng cây gỗ lớn và gỗ trầm tích cao lanh có thể dễ dàng khai thác, họ quyết định ở lại Bình Dương, sinh ra nghề mà vẫn hoạt động cho đến ngày nay.
 Mặc dù chúng bị ảnh hưởng rất lớn bởi nền văn minh Trung Hoa, nhưng các thợ gốm Việt Nam đã không trực tiếp làm gốm sứ Trung Quốc; Họ kết hợp các yếu tố theo những cách thức ban đầu, có kinh nghiệm với những ý tưởng mới và những đặc điểm được áp dụng từ các nền văn hoá khác như Campuchia và Champa. Đây là một trong những lý do tại sao người ta nói rằng Việt Nam đã sản xuất gốm sứ tinh vi nhất ở Đông Nam Á.
Ngay từ thời thơ ấu của nó, gốm Bình Dương được sản xuất với một loạt các hoa văn trang trí. Bên cạnh gốm sứ truyền thống xanh, một phong cách mới nhanh chóng trở nên nổi tiếng dưới cái tên "Gốm Lái Thiêu". Nó chủ yếu bao gồm các đồ dùng gia đình như bát và các món ăn mở rộng trưng bày các món ăn ngon, ấm trà và chén, các thùng đựng gạo nấu
 Ngọn như vòm, chai, vv Các mẫu trang trí được vẽ trên men theo phong cách rất tinh xảo và cây. Họ thường sử dụng ba màu, đỏ tía, xanh lá cây và đen hoặc đỏ, đen và chàm. Phổ biến phổ biến là một con gà, một cây chuối hoặc một bó hoa cúc, nhưng các mô hình khác cũng bao gồm hoa và chim, hoặc lá và phong cảnh. Gốm Bình Dương vẫn là một loại đồ dùng bằng đất nâu xốp, chủ yếu là men trắng (trắng ngà). Với thời gian, các họa tiết trang trí đã được phát triển về sự đa dạng cho sự hài lòng của khách hàng trong và ngoài nước. Gốm sứ Bình Dương được xưởng bằng lò nung hình. Qua thời gian, sản phẩm, quy trình công nghệ lò và quy trình sản xuất đã liên tục được cải thiện khi thợ Bình Dương trải qua các giai đoạn hiện đại hoá, cơ giới hóa để nâng cao năng suất cũng như chất lượng sản phẩm của mình.
 Hiện nay có 125 nhà sản xuất gốm sứ hoạt động trên 500 lò nung ở tỉnh Bình Dương, phần lớn làm việc ở Thuận An và huyện Tân Uyên, cũng như ở thành phố Thủ Dầu Một. Họ sản xuất hàng triệu miếng mỗi năm - để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và cũng xuất khẩu trên toàn thế giới. Hai công ty chính đã góp phần tạo dựng uy tín cho sản phẩm gốm Bình Dương trên thị trường quốc tế là Công ty gốm Nan Việt và Minh Long 1. Tọa lạc tại huyện Tai Uyen, công ty này hiện đang điều hành cơ sở hạ tầng trên diện tích 27 ha và xuất khẩu khoảng 1.000 container Đồ gốm đến Châu Âu và Nam Mỹ hàng năm. Loại thứ hai là tên tiếng Việt lớn khác trên thị trường thế giới. Nó đang vận hành lò nung hầm kỹ thuật cao và sử dụng công nghệ mới nhất trong các dây chuyền sản xuất của nó từ các giai đoạn trộn vật liệu đến thiết kế, mô hình, sơn phủ cho khô. Các công ty nổi tiếng khác như Thanh Lê, Minh Tân, Hiệp Kỳ, Cường Phát cũng như một số nhà máy sản xuất đã góp phần rất lớn vào sự phát triển của gốm Bình Dương trên toàn thế giới, với kim ngạch xuất khẩu gần 60 triệu USD năm.
     Một sản phẩm gốm được làm ra phải qua đến 7 khâu đoạn từ tìm kiếm cao lanh, phối liệu, tạo hình sản phẩm, chỉnh sửa rồi nhúng men, phun màu, vẽ dưới men hoặc làm màu trên men và nung chín sản phẩm. Mỗi khâu lại có những công đoạn nhỏ. Ví dụ như phối liệu gồm 3 công đoạn nhỏ là khai thác, vận chuyển, phối liệu, xối hồ để chắt lọc và nhào trộn đất sét tinh. Khâu tạo hình gồm 4 công đoạn nhỏ là tạo dáng sản phẩm, hong khô, nhúng men da và hong khô sản phẩm… Các công đoạn ấy hầu như đều được làm bằng tay, bằng kinh nghiệm được tích lũy của người thợ và đã trở thành bí quyết lưu truyền của mỗi gia đình, mỗi lò gốm sứ, được người thợ đúc kết cô đọng trong tám chữ: Nhất liệu, nhì nung, tam hình, tứ trí. Nghệ nhân Bùi Văn Giang, lò gốm Hưng Ký tại xã Tương Bình Hiệp, thị xã Thủ Dầu Một cho rằng: “Trong nghề gốm, khó nhất là khâu in”.

     Hoa văn trang trí trong sản phẩm gốm sứ Bình Dương với nhiều đề tài phong phú như Bát tiên quá hải, Thất Hiền, Phước-Lộc-Thọ, Mai - lan - cúc - trúc, Lưỡng long tranh châu, sư tử hí cầu và các tích cổ Trung Quốc trong Tây Du Ký, Thủy Hử, Tam Quốc Chí… Người thợ gốm Bình Dương cũng lấy hình ảnh thực trong thiên nhiên như con gà, con cua, con cá, con chim chào mào, hoa cúc, thảo mộc… để làm cảm hứng sáng tác trên sản phẩm gốm của mình, tạo nên những bức tranh gốm hồn nhiên, hấp dẫn cùng với nghệ thuật thể hiện màu sắc tương phản, sinh động.
Ảnh 2. Hoa văn gốm sứ Bình Dương vô cùng phong phú 


     Hiện nay, khi gốm sứ trong nước đang bị cạnh tranh mạnh mẽ bởi các sản phẩm từ Trung Quốc và các nước khác trong khu vực, thì gốm sứ Bình Dương vẫn giữ được chỗ đứng trên thị trường trong và ngoài nước. Sản phẩm gốm của tình Bình Dương năm vừa qua đã thu được hàng ngàn tỷ đồng. Riêng công ty TNHH Gốm sứ Minh Long đạt doanh thu hơn 350 tỷ đồng.

     Anh Đặng Quang Tự, một khách hàng đang sinh sống tại xã Tương Bình Hiệp, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương nhận xét: “Các sản phẩm gốm sứ của Bình Dương có nhiều mẫu mã hợp với văn hóa của người Việt Nam. Chất lượng gốm cũng không thua kém so với các sản phẩm của các nơi khác nhập vào. Tôi là người rất ưa chuộng các sản phẩm gốm sứ của Bình Dương, nhất là dĩa, chén, ấm, ly uống nước”.

     Cùng với gốm Bát Tràng, Tràng An, Biên Hòa,… gốm sứ Bình Dương đã góp phần tạo ra các sản phẩm phục vụ nhân dân và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao.

     Từ hòn đất vô tri vô giác, qua bàn tay nhào nặn của các nghệ nhân, những sản phẩm gốm sứ đậm chất nghệ thuật đã ra đời. Các nghệ nhân nổi tiếng còn lại trong làng gốm sứ Bình Dương hiện nay như: Lý Ngọc Minh, Lý Ngọc Bạch, Từ Trung Hiếu, Vương Cẩm Uông, Dương Văn Long… vẫn như những con ong chăm chỉ, ngày đêm miệt mài, tìm tòi, sáng tạo và truyền nghề cho thế hệ mai sau. Để khẳng định vị thế của nghề gốm sứ địa phương, vào tháng 9 năm nay tỉnh Bình Dương sẽ tổ chức Festival gốm sứ với quy mô lớn nhằm quảng bá hình ảnh một Trung tâm sản xuất và bảo tồn gốm sứ lớn nhất cả nước./.

Thứ Năm, 18 tháng 5, 2017

HỌC HỎI QUÁ TRÌNH LÀM GỐM HIỆN ĐẠI

Ngành gốm sứ hiện nay  có quy mô lớn và bao gồm nhiều sản phẩm từ gốm sứ truyền thống như gốm sứ và gốm kỹ thuật phức tạp hơn cho các ứng dụng hóa học, cơ học hoặc nhiệt, bài viết này sẽ cung cấp cho bạn một cái nhìn khái quát về quá trình sản xuất đồ gốm truyền thống

Gốm sứ là gì?
Gốm sứ có thể được định nghĩa là một lớp chất rắn vô cơ, phi kim loại có nhiệt độ cao để sử dụng trong sản xuất. Tôi đã nói về thuật ngữ "gốm truyền thống" sẽ là trọng tâm của bài viết này, nó đề cập đến các sản phẩm gốm được sản xuất từ đất sét thô và sự kết hợp của đất sét tinh luyện và các khoáng chất không bằng chất dẻo dạng bột hoặc dạng hạt như đồ gốm v.v… Để tạo ra những sản phẩm cuối cùng này, vật liệu gốm cần phải trải qua quá trình sản xuất truyền thống như sau:

Ảnh 1. Đất sét làm gốm

1 - Trộn đất sét
Đất sét đến bằng xe tải hoặc đường sắt dưới dạng bột. Bột được làm ẩm bằng nước và trộn với một chiếc bể khổng lồ với một cái chèo được gọi là blunger. Nhiều trục chính trộn và trộn lại đất sét, để phân bố đều nước. Một mẻ điển hình hỗn hợp tại một thợ làm đồ sản xuất lớn là 100.000 lb (45.400 kg) và họ thường trộn hai lô trong một ngày. Tại thời điểm này, chất bẩn là khoảng 30% nước.Tiếp theo, các chất bẩn được lọc ép. Một thiết bị ép các bùn giữa túi hoặc các bộ lọc (như một cider press) để ép nước thừa. Kết quả là đất sét dày và khá khô và được gọi là bánh và bây giờ là khoảng 20% nước. Bánh sau đó được đưa vào máy phết, trong đó đất sét được cắt nhỏ thành miếng. Việc xắt vụn này làm cho đất sét bốc mùi vì máy hút hút không khí ra khỏi quy trình. Bánh sau đó được hình thành thành các xi lanh mà bây giờ đã sẵn sàng để đúc hoặc hình thành.

2 – Tạo hình/ Định hình sản phẩm: 
Cách nhanh nhất để sản xuất một nồi bình thường, rỗng là bằng cách sử dụng một máy tung lên. Vì vậy, các đồ dùng chẳng hạn như bình hoa được làm chủ yếu bằng các máy rung lên. Các bình đất sét được làm trong máy phay sẽ được gửi đến máy kích nổ. Để làm bình, một xi lanh đất sét ướt được đổ vào máy kích nổ bằng một cánh tay hút, đặt vị trí đất sét bên trong khuôn thạch cao. Một cánh tay kim loại sau đó rơi xuống lớp đất sét ướt sục ép nó vào bức tường bên trong của khuôn thạch cao, tạo thành chiếc tàu mới. Khuôn thạch cao, với đất sét ướt Sau khi được hình thành, phần mềm xanh được tráng men và sau đó được nung, tạo ra đồ gốm.
Ảnh 2. Định hình sản phẩm là bước quan trọng nhất để cho ra đời những mẫu sản phẩm đẹp

Một khi đã được thành lập, phần mềm đã được tráng men và sau đó nung ra, tạo ra đồ gốm.
Bên trong, sau đó được nhấc lên khỏi máy và đặt trong máy sấy. Khi đất sét nung nóng và làm khô nhẹ, đất sét ướt sẽ kéo ra khỏi khuôn thạch cao và do đó dễ dàng tháo ra. Do đó, nhà máy phải có hàng ngàn khuôn đúc thạch cao để làm cho các bình hoa hoặc các phần mềm rỗng khác như một khuôn thạch cao được sử dụng để làm cho mỗi chiếc tàu mới. Nhà máy có thể làm được đến 9 miếng gốm trong một phút.
Một máy lấy các cạnh thô ra khỏi mảnh đúc. Các bộ phận được làm sạch được đặt trên một dây đai liên tục di chuyển dẫn đến các máy sấy đường hầm, làm nóng các mảnh và làm giảm hàm lượng nước xuống dưới 1% độ ẩm trước khi tráng men và nung.

3 - Trang trí hoa văn: Sản phẩm gốm được trang trí hoa văn bằng nhiều phương pháp như:
- Vẽ trên gốm (vẽ trên men và vẽ dưới men): Sản phẩm gốm sau khi tráng men rồi trang trí hoa văn được gọi là vẽ trờn men; Trang trí hoa văn trước rồi tráng men sau gọi là vẽ dưới men. Kỹ thuật này chủ yếu được ứng dụng trong phương pháp làm gốm thời Lê - Nguyễn.

- Cắt gọt và khắc vạch: Sản phẩm gốm sau khi chuốt xong được phơi nắng, khi nào đất se cứng thỡ tiến hành sửa, gọt, cạo nhẵn...theo đúng ý muốn. Các chi tiết khác như: Quai, tai hoặc trang trí các hình động vật nổi, hoa lá... cũng được thực hiện ở giai đoạn này. Khắc vạch là phương pháp trang trí hoa văn chủ yếu của gốm thời tiền sử. Người thợ gốm vẽ hoặc khắc vạch trực tiếp lên xương gốm sau đó đem nung.

- In hoa văn bằng khuôn: Một số sản phẩm gốm có hoa văn khắc chìm vào xương gốm được thực hiện bằng phương pháp in khuôn. Kỹ thuật này được áp dụng nhiều trong phương pháp làm gốm thời Lý - Trần, điển hình là các sản phẩm gốm men ngọc và gốm men hoa nâu.

4 - Tráng men: Có nhiều cách tráng men khác nhau như: Phun men, dội men lên bề mặt sản phẩm gốm có kích thước lớn. Nhúng men, quét men đối với loại sản phẩm gốm có kích thước nhỏ. Nhưng thông dụng nhất vẫn là phương pháp kìm đúc: Tức là tráng men bên trong sản phẩm trước, tráng men bên ngoài sau. Dùng gáo dừa múc men rót vào bên trong sản phẩm, lắc sao cho đều, tráng men bên ngoài thì cầm sản phẩm nhúng vào thựng đựng men cho men lỏng kín bề mặt sản phẩm. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp "quay men" hoặc "đúc men". Quay men là hình thức tráng men bờn trong và bên ngoài sản phẩm cùng một lúc, tức là cầm sản phẩm cần tráng men một tay đỡ một tay quay vào thùng men gọi là quay men. Đúc men, tức là chỉ tráng men bên trong lòng sản phẩm. Cách tráng men thiên biến vạn hoá tuỳ thuộc vào kích thước của sản phẩm, có sản phẩm sử dụng cùng một lúc nhiều cách tráng men.

5 - Nung đốt: Đây là công đoạn quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của một mẻ gốm. Có nhiều loại lò được sử dụng nhưng phổ biến là lò cóc và lò bầu. Qua khai quật các di tích gốm cổ ở Hải Dương, chưa phát hiện thấy lò nung gốm nguyên vẹn. Tại các di tích gốm Chu Đậu (Nam Sách), Cậy (Bình Giang)... đó phát hiện được một số đáy lò, chủ yếu là lò cóc.
Lò nung có thể được làm nóng bằng khí, than, hoặc điện. Một gốm sứ sản xuất lớn sử dụng lò nung  bằng khí tự nhiên. Những chiếc ô tô lớn hoặc toa tàu (cao khoảng 5 ft hoặc 1,5 m và cao gần 5 ft hoặc 1,5 m) được đổ đầy đồ gốm chưa được gốm và gửi đến các lò nung, nung khoảng 20 vạn miếng đồ gốm trong một tuần. Những lò nung mới chạy ở nhiệt độ cao hơn lò nung cũ và đòi hỏi thời gian nung ngắn hơn khoảng 2.300 ° F (1.260 ° C) chậu trong lò trong khoảng 5 giờ - do đó cho phép các nhà máy di chuyển miếng nhanh hơn thông qua sản xuất.
Lò đốt thay đổi chất men thành lớp phủ giống như thủy tinh, giúp làm cho bình hầu như không thấm nước. Gốm sản xuất đơn màu chỉ đòi hỏi một lần đốt với lò nung và thủy tinh mới. (Nhiều lớp tráng men yêu cầu đồ ăn được nung một lần và được làm thành một thân cứng trắng, cứng hoặc nguội, sau đó được tráng men và nung lại, tuy nhiên điều này không cần thiết đối với một số loại men mới).

LÀNG GỐM BÁT TRÀNG – MỘT HÌNH ẢNH ĐẸP Ở THỦ ĐÔ HÀ NỘI

Vị trí: Nằm bên bờ tả ngạn sông Hồng, làng gốm Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, cách trung tâm thủ đô Hà Nội hơn 10km về phía đông – nam.
Ðặc điểm: Làng gốm Bát Tràng đã tồn tại ở ven đô Thăng Long với tư cách một làng nghề khoảng hơn 500 năm nay.
Tên Bát Tràng được hình thành từ thời Lê, đó là sự hội nhập giữa 5 dòng họ gốm nổi tiếng của làng Bồ Bát xứ Thanh với dòng họ Nguyễn ở đất Minh Tràng. Năm dòng họ lớn gồm các họ Trần, Vương, Nguyễn, Lê, Phạm đã nhóm họp và quyết định đưa một số nghệ nhân, thợ gốm và gia đình con cháu dời làng di cư về phía kinh thành Thăng Long tìm đất lập nghiệp. Họ dừng chân tại vùng 72 gò đất trắng làng Minh Tràng.
Ảnh 1. Những gian hàng bán đồ gốm tại làng Bát Tràng

Gốm Bát Tràng từ xưa đến nay đã lưu hành trên khắp mọi miền đất nước, thậm chí ra cả nước ngoài. Sản phẩm gốm Bát Tràng như lọ độc bình, song bình, bát vẽ chuồn, bát vẽ các tích cổ...đã được các lái thương Bồ Ðào Nha, Nhật Bản, Hà Lan, Pháp... mua với số lượng lớn. Nhiều nghệ nhân Nhật Bản đã bắt chước phong cách tạo hình, nét vẽ phóng khoáng, màu men đa dạng, giản dị, mộc mạc mà sâu lắng của gốm Bát Tràng.
Từ những thế kỷ trước, đồ gốm Bát Tràng đã thuộc loại cao cấp, quý hiếm nhưng phần nhiều là đồ thờ: chân đèn, lư hương, bình hoa. Về sau, do thị hiếu phát triển, cộng với nhu cầu thị trường, gốm Bát Tràng đã có nhiều đồ gia dụng, phổ biến nhất là bát, đĩa, bình, lọ. Ngày nay, cái khéo cái tài của người làng gốm Bát Tràng được phát huy cao độ trong cơ chế thị trường. Nhiều mặt hàng phong phú về chủng loại và kiểu dáng đã được sản xuất. Các loại gốm mỹ thuật, gốm sứ công nghiệp, đồ giả cổ, gốm xây dựng cao cấp đã dần được sản xuất nhiều hơn đồ gốm gia dụng. Bây giờ những mặt hàng truyền thống xưa chỉ được làm khi có khách đặt để trùng tu phục chế di tích cổ. Đứng trước những mặt hàng mỹ nghệ gốm.
Trong những năm gần đây, làng đã chào đón hơn 10.000 du khách quốc tế và hơn 50.000 du khách Việt Nam mỗi năm.Tuy nhiên, nghệ nhân làng nghề truyền thống đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường cho sản phẩm của mình, đặc biệt là thị trường nước ngoài. Theo ông Hà Văn Lâm, đại diện làng nghề Bát Tràng, khoảng 80-85% sản phẩm địa phương đã được xuất khẩu sang thị trường nước ngoài trong giai đoạn 1990-2000 nhưng con số này đã giảm đáng kể sau năm 2005. Tình hình là do suy thoái kinh tế, đổi mới chậm trong việc cải thiện mô hình sản phẩm, cạnh tranh gay gắt trên thị trường và các hoạt động không chuyên nghiệp của các hộ gia đình và doanh nghiệp địa phương. 

Ảnh 2. Một trong những cửa hàng bán đồ gốm trong làng

Trong bối cảnh đó, chính quyền địa phương và người dân địa phương đã cố gắng hết sức để khôi phục làng nghề lâu năm. Các nghệ nhân địa phương nổi tiếng tạo ra các sản phẩm gốm mang dấu cá nhân của họ, hấp dẫn với số lượng lớn khách hàng. Các nhà sản xuất đồ gốm địa phương đang tập trung mở rộng thị trường nội địa trong khi tìm kiếm đối tác nước ngoài. Ngoài ra, họ cũng chú ý đến việc áp dụng các công nghệ sản xuất mới, đổi mới mô hình và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Theo thống kê của xã Bát Tràng, doanh thu hàng năm của địa phương từ ngành gốm sứ đạt gần 400 tỷ đồng (18,34 triệu USD), góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Để thúc đẩy sự phát triển của làng nghề, cần có một hướng cụ thể và sự hỗ trợ của chính quyền địa phương và các cơ quan liên quan.